Thursday, July 31, 2014

Saturday, July 26, 2014

Hinh ti nan





Lều tị nạn tại Kuku












Nằm mơ
 Đêm hôm qua con nằm mơ thấy má
tóc búi dịu dàng, sợi trắng bay bay
con ngỡ ngàng, cảm giác như người say
bao năm rồi, tưởng lòng mình băng giá
 Con từ lâu thấy mình như chiếc lá
mặc gió xoay tròn, cuộc sống đẩy đưa
Ít khi nào con nghĩ về quê xưa
nhớ lời dặn rất ân cần của má
Con chợt tỉnh, thấy mình vô tình quá
bận rộn kiếm tiền, vui với vợ con 
quên rằng mình có nhiều bổn phận hơn
trong đó có thi hành lời ba má
Khi ra đi, con mong mình cải hóa
được cuộc đời và xây đắp tương lai
chữ quê hương theo ngày tháng nhạt phai 
và ước mộng, đã ngủ quên bóng tối
Con vẫn nhớ con đường xưa thẳng lối
có hoa vàng, có nón lá má che
má dạy con luôn để ý lắng nghe
tiếng lương tâm, sống làm người công chính
Như ba con, rất hiên ngang người lính
đã bỏ mình mà vị quốc vong thân 
nối gót ông cha, gương sáng tiền nhân
để bảo vệ mảnh đất hiền tươi thắm
Má dạy con biết rừng tràm, rừng mắm
phải hy sinh để lót bước tương lai
tuổi trẻ tài cao, nhiệt huyết hăng say
phải cương quyết với bao là trách nhiệm
Con nơi đây đã quên lời tâm niệm
dùng trong nhà tiếng ngoại quốc dễ nghe
lo sắm nhà, rồi ráo riết mua xe
quên giá trị của tâm hồn cao quý
Lời ru trưa, bài vỡ lòng lãng phí
tình gia đình, nghĩa dân tộc kể chi
bởi vất vả, nên con đã nhiều khi
sống hời hợt tựa như loài gỗ đá
Mây rất trong, cành thưa trơ trụi lá
chiếc lá này con xin hướng về Nam
nơi mộ phần lạnh lẽo đã nhiều năm
má nằm đợi ngày con đây bỗng nhớ
Con sẽ nhớ, má ơi! Con sẽ nhớ
là con người phải kiên dũng thẳng ngay
và quê hương, dù trong kiếp lưu đày
nhưng nghĩa khí vẫn phải luôn bồi đắp
Con sẽ dạy cho con mình đầy ắp
những tâm tình, ơn nghĩa má gởi trao
và hôm nay con tỉnh giấc lao đao
thầm hứa sẽ thực thi lời ba má .......
 Trịnh Tây Ninh
Lời ru trưa hè
Trưa hè vắng 
mẹ ngồi ru con
bình sữa nóng vẫn còn 
con chê không chịu bú
cuộc sống Âu Tây quá no đủ
có biết không con
ngày ấy, trên biển cả để sống còn
có người mẹ đã lấy máu mình cho con bú
rồi lịm đi trong giấc ngàn thu
Trưa hè vắng
mẹ ngồi ôm con
ráng đi con, cơm cá nóng dòn
con mê mải chơi không thèm há miệng
có biết không con, để mẹ kể nghe câu chuyện
lúc nhà mình nghèo không đủ cơm ăn
cuộc sống khó khăn, lũ lụt tràn dâng
bà ngoại bảo hãy ngủ đi cho quên đói
trong mơ mẹ thấy bao tử mình nhức nhối
thèm chén cơm lành, thèm giấc ngủ bụng no
tuổi thơ mẹ trải qua trong âu lo
đói khổ và bất công khắp chốn
ăn đi con, ăn cho chóng lớn
hiểu biết nhiều mà chia sẻ niềm đau
may mắn cho con, sống trong những ngày sau
trên đất nước tự do, công bình và no ấm
mẹ ước mơ sau này con sẽ thấm
những ân tình, những nước mắt ngày xưa
con lớn khôn, sẽ bù đắp cho vừa
cho tương lai sẽ không còn hạn hẹp
Trưa hè vắng
mẹ ngồi với con
áo đẹp đây con, mẹ vừa may với  hết tâm hồn
con lạnh lùng, không có hiệu con chê!
mẹ cười buồn, thương cho tuổi ngô nghê
có biết không con, những buổi chiều quê
gió rét, em thơ không áo mặc
thân gầy trơ xương phô bày sự thật
của đói nghèo, tang tóc cùng chia ly
con rất đầy đủ nên đâu có hiểu chi
hãy mở mắt ra để nhìn bao nhiêu thống khổ
 Trưa hè vắng
mẹ ngồi nhắc nhở
hãy can trường, rộng mở và yêu thương
nếu có lần con thấy vấn vương
hãy hướng về quê hương và tranh đấu
cho đất mình, cho dân ta yêu dấu
được qua rồi những ngày tháng khổ đau
cùng nắm tay, cùng xây dựng với nhau
cho tình mẹ, vẫn mãi hoài triển nở ....
Trịnh Tây Ninh

Thursday, July 24, 2014

Saint Charbel Feastday 24/7


Tranh vẽ của HBTT
St. Shabel Người Ần Tu (hermit) ở Lebonon

24/7 –  Thánh Sharbel Makhlouf, Linh mục (1828-1898)
Giuse Zaroun Maklouf sinh tại làng Beka-KafraLebanon, được người thúc bá nuôi vì ngài mồ côi cha mẹ từ lúc 3 tuổi. Lúc 23 tuổi, ngài vào tu viện thánh Maron ởAnnayaLebanon, và lấy tên là Sharbel – vị tử đạo hồi thế kỷ II. Ngài khấn trọn năm 1853 và thụ phong linh mục 6 năm sau.
Noi gương thánh Maron (thế kỷ V), ngài sống ẩn tu từ năm 1875 cho đến chết. Gương thánh thiện của ngài làm cho nhiều người đến xin phúc lành và xin cầu nguyện. Ngài ăn chay nghiêm nhặt và rất sùng kính Thánh Thể. Thi thoảng bề trên sai ngài đi ban các bí tích cho các làng lân cận, ngài vui vẻ vâng lời.
Ngài qua đời vào chiều tối ngày 24-12-1898. Mộ ngài được cả người giáo lẫn người lương đến cầu nguyện và xin ơn chữa lành. Ngài được CP GH Phaolô VI phong chân phước năm 1965, và được phong thánh năm 1977.
 Tram Thien Thu translated

Saint Charbel 
"...a hermit of the Lebanese mountain is inscribed in the number of the blessed, a new eminent member of monastic sanctity is enriching, by his example and his intercession, the entire Christian people. May he make us understand, in a world largely fascinated by wealth and comfort, the paramount value of poverty, penance and asceticism, to liberate the soul in its ascent to God..."
Pope Paul VI, October 9, 1977


Cn 151: Các Phép Lạ Của Thánh Charbel, Người Nước Lebanon (libăng)
Chủ Nhật, Ngày 20 tháng 9-2009
CN 151: CÁC PHÉP LẠ CỦA THÁNH CHARBEL, NGƯỜI  NƯỚC LEBANON (LIBĂNG)
Nguồn: Spiritdaily.com
Xin Thánh Charbel, vị linh mục người Li Băng cầu bầu cho thế giới có hòa bình. 

1. VỊ TU SĨ KHỔ HẠNH CỦA LI BĂNG.
Sau 16 năm sống khó nghèo, Cha Charbel được Bề Trên cho phép thoát khỏi thế giới trần tục để sống ẩn tu và trở nên một nhà tu khổ hạnh. Ở sâu trong một hang động gần tu viện, Cha Charbel sống suốt cuộc đời còn lại của ngài trong lời cầu nguyện và chiêm niệm. Ngài ăn chay thường xuyên và làm lao động tay chân.
Truyền thống chứng minh rằng cha Charbel có nhiều ơn đặc biệt khi ngài còn sống, chẳng hạn như ngài đã cứu các tu sĩ đồng môn khỏi con rắn độc khi ngài lên tiếng đuổi nó ra khỏi nơi ấy. Có nhiều người cảm nghiệm được ơn soi sáng và chữa lành khi người ta kêu Danh của ngài. Ngay cả sau khi ngài chết vào ngày 24 tháng 12 năm 1898, thì trong hồ sơ của tu viện có ghi rằng ngài luôn hoạt động sau khi đã qua đời. Hồ sơ nói rằng đức vâng lời của ngài làm cho ngài sống như một “thiên thần hơn là một con người”.
2. CÁC PHÉP LẠ: NGÔI MỘ LUÔN SÁNG NGỜI.
Thế giới kỳ vọng nghe thêm các phép lạ của Thánh Charbel vì mộ của ngài luôn được bao bọc bởi luồng ánh sáng lạ thường. Ðó là lời kể trong cuốn sách mà tu viện viết về người linh mục nổi tiếng của họ. Ánh sáng chỉ tàn lụi sau 45 ngày, nhưng lòng tin của người ta thì khác hơn. Các khách hành hương cố gắng ăn cắp những gì còn lại của ngài. Và giáo quyền đã có lý do để quật mở ngôi mộ của ngài ra. Xác của ngài nằm nổi lên khỏi đống bùn nhưng vẫn còn nguyên vẹn, không hư hại, giống như xác vừa được chôn ngày hôm qua.
Trong xác của ngài được ghi nhận là có chất nước màu đỏ như mầu máu chảy ra từ xác của ngài, và hiện tượng này được nhìn thấy cho đến bây giờ. Nước đỏ như máu được giữ trong một mảnh khăn vải, và theo như tu viện cho biết thì trong nhiều năm nay, khăn máu này là nguyên nhân chữa lành cho nhiều người.
Mộ của Thánh Charbel được khai mở ra 4 lần trong thế kỷ này, lần cuối là vào năm 1955, và mỗi lần như thế, người ta thấy thể xác chảy máu của ngài vẫn cử động như đang còn sống.”
3. NỮ TU MARIA ABDEL KAMARI ÐƯỢC CHỮA LÀNH.
Sau khi nữ tu Maria Abdel Kamari được chữa lành thì cha Charbel được phong Á Thánh. Nữ tu Maria bị bịnh nan y đường ruột. Bà không thể ăn được vì thức ăn không vào trong cơ thể. Bà nằm liệt giường suốt 14 năm. Bà đã lãnh nhận phép xức dầu thánh 3 lần. Năm 1950, bà được đưa tới ngôi mộ của Thánh Charbel và cầu nguyện tại đó. Bỗng dưng bà cảm thấy có một luồng năng lực mạnh mẽ và bà có thể đứng lên mà không cần ai giúp đỡ. Từ đó, Nữ tu Maria Abel Kamari được chữa lành hoàn toàn khỏi các bịnh tật của bà.
4. CÔ BÉ SAMIRA HANNOCH CÓ THỊ KIẾN VỀ THÁNH CHARBEL.
Gần đây, vào năm 1992, một số phép lạ của Thánh Charbel đã được các báo chí Tây Phương lưu  ý. Các báo của Thụỵ Ðiển  hay Anh Quốc, chẳng hạn như  báo TheGuardian, đã kể về câu chuyện cô bé 15 tuổi tên Samira Hannoch thấy thị kiến về Thánh Charbel hiện ra ở nhà của cô, gần Stockholm, nước Thụy Ðiển. Từ đó, dầu thơm cứ đổ tuôn ra từ bức hình của Thánh Charbel ở trong nhà của cô, và ngài ban rất nhiều ơn chữa lành cho nhiều người.
5. BÀ NOUHAD EL CHAMI BỊ TÊ LIỆT MÀ ÐƯỢC THÁNH CHARBEL GIẢI PHẪU VÀ CHỮA LÀNH.
Vài tháng sau, vào tháng 1 năm 1993, một trường hợp khác xẩy ra, lần này ở Li Băng, với một phụ nữ 59 tuổi, tên là Nouhad El-Chami. Bà Nouhad là mẹ của 12 đứa con. Bỗng dưng bà bị tê liệt vì các mạch máu bị thu hẹp lại. Cơn bịnh xuất hiện nhanh chóng.
Vào ngày 21 tháng 1 năm 1993, bà Nouhad có một giấc mơ. Bà kể như sau:
“Hai nam tu sĩ đến bên giường bịnh của tôi. Một vị mà tôi nhận ra là Thánh Charbel đến gần tôi và đặt tay ngài vào cổ tôi và nói:
”Cha đến đây để mổ cổ giúp cho con lành bịnh.”
Lúc đó, tôi cố gắng quay sang nhìn vào khuôn mặt của ngài, nhưng tôi không thể nhìn được vì ánh sáng chan hòa phát ra từ thân xác và đôi mắt của Ngài, ánh sáng chọi lọi ấy làm cho đôi mắt tôi như bị lòa đi. Tôi bối rối hỏi ngài:
“Thưa Cha Charbel, tại sao cha lại muốn giải phẫu cho con? Bác sĩ nói con không cần phải giải phẫu mà.”
Nhưng Thánh Charbel đáp:
”Chắc chắn con cần phải giải phẫu, và Ta là Cha Charbel đến để giải phẫu giúp cho con.”
Tôi bèn nhìn lên tượng Ðức Mẹ Maria và nói:
”Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cứu giúp con, làm sao các tu sĩ này mổ xẻ mà không có thuốc tê và chỉ khâu?”
Rồi thì tôi nhận thấy tượng Ðức Mẹ Maria đứng giữa hai vị tu sĩ. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy đau ở nơi mà các ngón tay của Cha Charbel đặït lên. Tay cha xoa bóp cái cổ của tôi. Khi Thánh Charbel mổ xong thì vị tu sĩ kia đến gần, đặt tôi ở trong tư thế ngồi, và đặt một cái gối đàng sau lưng của tôi. Ngài với tay lấy một ly nước và đặt tay sau đầu tôi và nói:
“Con hãy uống nước này đi.”
Tôi đáp:
”Con không thể uống mà không có ống hút.”
“Chúng tôi đã mổ cho con rồi đó, và con sẽ uống nước này, rồi con sẽ đứng và đi được.”
Câu chuyện này đã được ghi chép và xuất bản trong cuốn sách thứ hai.  Nhà xuất bản là tu viện nơi mà Thánh Charbel đã sinh sống. 
Sau đó, trong một giấc mơ khác, bà Nouhad mơ thấy thánh Charbel xuất hiện với bà. Từ đó, bà khám phá ra rằng trong nhà bà có tấm hình của Thánh Charbel chẩy dầu tươm ra. Việc chẩy dầu tiếp tục cho đến hiện nay, đã có một phóng viên tên Nabil Matraji ở Li Băng đã tới điều tra. Ông ta nói:
”Thật là điều đáng ngạc nhiên!”
Một điều lạ là không phải chỉ có tấm hình của Thánh Charbel tươm dầu chữa lành ở nhà bà Nouhad mà thôi, mà còn có bức hình của vị thánh tên Maroun tươm dầu nữa. Ngài là Ðấng sáng lập Dòng Maronite vào thế kỷ thứ 4. Bà Nouhad xác nhận rằng chính Thánh Maroun là vị thánh thứ hai mà bà Nouhad thấy khi hai vị tu sĩ đến giải phẫu cho bà và chữa lành bà hoàn toàn.
6. BÀ NADIA SADER ÐƯỢC CHỮA LÀNH BỊNH LIỆT. 
Trong một bài báo ở Al-Anwar, Li Băng vào ngày 10 tháng 9 năm 1996, thì bà Nadia Sader mô tả những gì đã xẩy ra cho bà khi bà uống những chiếc lá từ một cây sồi của nhà bà Nouhad. Bà Nadia bị bịnh tê liệt. Bà đau đớn quá đỗi và có thể chết bất cứ lúc nào. Mẹ chồng bà khuyến khích con dâu hãy uống nước của các chiếc lá nấu chín vì các lá này đã được Thánh Charbel chúc lành. Bà Nadia miễn cưỡng uống nước này. Bà kể với phóng viên báo chí rằng:
“Tôi uống thứ nước nóng ấy và cảm thấy nóng như bị phỏng trong lòng. Thật là đau đớn, không thể  tả xiết được. Tôi đau từ phía cằm đến chân phải. Tôi rên rỉ, la hét, vừa đau vừa sợ. Bỗng dưng, tôi thấy một cảnh tượng đẹp đẽ nhất trong đời mình. Tôi thấy Thánh Tâm Chúa Giêsu đỏ như máu và đang đập nhịp. Thánh Tâm Chúa được bao quanh bằng ánh sáng và các con của tôi đang đứng chung quanh Thánh Tâm Chúa.”
“Thế rồi tôi bị bất tỉnh. Những người đứng chung quanh tôi kể lại là họ thấy chân phải của tôi cử động mạnh mẽ, rồi cử động lên xuống với một sức mạnh không tưởng tượng được. Nhưng lúc đó, vì bất tỉnh nên tôi không biết gì về điều ấy cả. Sau đó, mọi người lại thấy chân trái của tôi cử động mạnh mẽ như chân phải. Sự cử động mạnh mẽ làm cho tôi té nhào xuống nền nhà. Chân của tôi lại cử động mạnh mẽ mà dù cho có ba người lực lưỡng giữ cũng không thể làm cho nó ngừng được. Lúc đó, tôi vẫn bất tỉnh. Tôi nằm liệt giường đến sáng ngày thứ ba, khi con của tôi đến đánh thức tôi dậy, và lúc ấy, tôi biết rằng mình đã hoàn toàn được chữa lành. Tôi đứng lên, đi lại và phục vụ cho gia đình. “ 
Bà Nadia Sader không biết tại sao mà bà được ơn chữa lành, bà cứ nửa tin nửa ngờ, ngay cả khi được thị kiến về Thánh Charbel và Chúa Giêsu. 
Chúa Giêsu hỏi bà:
”Ta đã đưa con ra khỏi giường bịnh mà con vẫn không tin Ta à?”
Từ đó, nhà của bà Nadia trở nên một nơi hành hương vì các tượng ảnh của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Charbel cứ tươm dầu ra, nhưng bà Nadia vẫn tiếp tục bối rối giữa niềm tin và nỗi lo sợ, nhất là sau khi có người bảo bà rằng việc tươm dầu là công việc của ma quỷ.
Sau đó, Chúa Giêsu liên tiếp hiện ra với bà Nadia, và bà đã tin. Bà còn được nhận các thông điệp của Thánh Charbel. Ðây là một số trong các thông điệp của Thánh Charbel ban cho bà Nadia:
“Con hãy luôn xin ơn chữa lành phần hồn, và đừng sợ các bịnh phần xác.”
Và:
”Con hãy cầu nguyện cho kẻ sống, bởi vì đa số người sống đang chết, và các người chết là người đang sống.”
7. ÔNG RAYMOND NADER ÐƯỢC NĂM NGÓN TAY CỦA THÁNH CHARBEL IN LÊN CÁNH TAY ÔNG:
Ông Raymond Nader là một kỹ sư điện tử người Li Băng. Ông này có nhiều chứng cớ về các hoạt động của Thánh Charbel, bởi vì trên cánh tay của ông có in dấu phỏng của năm ngón tay của Thánh Charbel. Các dấu ngón tay phỏng này đã đổi mới đến 6 lần.
Tháng 4 năm 1997, ông Raymond kể cảm nghiệm của ông trước ống kính của TV. Vào ngày 9 tháng 11 năm 1994, ông ta trải qua một đêm ở trong tu viện kín mà Thánh Charbel đã sống trong 23 năm. Ông Raymond muốn suy gẫm và ông đã thắp 5 ngọn nến. Ông kể với đài truyền hình Murr rằng:
“Ðó là một đêm lạnh và yên tĩnh, thình lình tôi cảm thấy luồng khí ấm ở chung quanh tôi, ngay trong đêm lạnh giá. Sau đó có một luồng gió ấm áp và mạnh mẽ bắt đầu thổi đến. Tuy nhiên, tôi rất ngạc nhiên khi thấy lửa của các ngọn nến vẫn đứng yên mà không bị tắt đi. Tôi cố gắng giải thích theo khoa học, nhưng lại nghĩ mình bị ảo ảnh gì đây.”
“Bỗng dưng tôi mất các giác quan. Không còn sự ấm áp, gió hay lửa nữa. Tôi đang ở trong một thế giới khác, một thế giới chan hòa ánh sáng. Không phải là ánh sáng mà ta biết, nhưng ánh sáng trong suốt như nước hay thủy tinh. Ánh sáng không đến từ một hướng mà đến từ mọi nơi. Ánh sáng ấy sáng láng cả tỷ triệu lần hơn ánh sáng mặt trời.” 
“Trong ánh sáng ấy, tôi cảm thấy một Sự Hiện Diện, dù không thể thấy, nhưng tôi biết là có Sự Hiện Diện. Một tiếng nói từ khắp nơi cất lên:
“Không, con không nằm mơ đâu. CON TỈNH THỨC HƠN BAO GIỜ.”
“Tôi nghe tiếng nói đó trong từng tế bào của mình, chứ không phải bằng lỗ tai của thể xác. Tiếng nói không bằng lời hay bằng âm thanh. Sự Hiện Diện đến với tôi như một cảm tưởng của sự bình an, niềm vui và tình yêu thật sự. Có những giây phút, tôi cảm thấy cảm nghiệm này chấm dứt. Tôi mong muốn niềm vui và sự bình an ấy kéo dài mãi mãi, và tôi ao ước nếu Sự Hiện Diện không thể ở lại với tôi nữa thì xin hãy mang tôi cùng đi, nhưng Ngài cho tôi hiểu rằng Ngài luôn ở đây.”
“Dần dần tôi cảm thấy mình tỉnh thức. Tôi nhìn những cây nến với sự kinh ngạc vì  tất cả nến đã tắt hết rồi. Ðồng hồ của tôi cho biết là đã 4 giờ qua đi trong nháy mắt. Tôi rời tu viện kín, và trên đường đi đến xe hơi, tôi cảm thấy sức nóng ở cánh tay mình. Tôi nghĩ có lẽ tôi bị một vết thương hay bị muỗi đốt. Nhưng sức nóng càng gia tăng nhiều hơn. Tôi cởi chiếc áo thung ra. Qua ánh sáng đèn xe hơi, tôi thấy 5 dấu ngón tay in trên cánh tay của tôi. Ðúng là năm ngón tay của một người, có cả những nếp nhăn của các móng tay. Các vết ấy rất nóng, nhưng không làm cho tôi bị đau, chỉ ngứa thôi. Trong 5 ngày, vết thương từ 5 ngón tay ấy làm cho tôi chảy máu và nước.”
Bác sĩ Nabil Hokayem, một bác sĩ thẩm mỹ, là một trong các bác sĩ nổi tiếng nhất ở Li Băng, xác nhận rằng đây là vết phỏng ở mức độ thứ hai. Vào ngày mừng kính Thánh Charbel, ngày 15 tháng 7 năm 1995, ông Raymond Nader lại có một cảm nghiệm mới và đặc biệt khi ông đến thăm viếng Tu viện của thánh Maroun. Ông ta kể rằng:
”Trên đường đến tu viện của Cha Thánh Charbel, tôi thấy một đoàn rước kiệu đi trước tôi. Tôi nhận ra các tu sĩ của Tu viện, nhưng cuối đoàn rước có một linh mục già nua. Tôi tiến đến gần ngài để hỏi vài câu. Khi tôi đến gần bên ngài thì mọi sự chung quanh tôi thay đổi. Mọi âm thanh biến đi, nhưng tiếng của vị linh mục vang dội trong đầu của tôi. Ðó là lúc mà tôi nghe được một trong sáu thông điệp mà Cha Thánh Charbel nói với tôi. Với mỗi thông điệp thì các dấu tay trên cánh tay tôi lại đổi mới.
Sau đây là các thông điệp mà Cha Thánh Charbel nói với tôi:
 “Thiên Chúa sáng tạo mỗi con người để chiếu sáng, chiếu sáng thế giới. Các con là ánh sáng của thế giới. Mỗi một người là một ngọn đèn để chiếu sáng. Thiên Chúa ban tấm kính sạch và trong suốt cho mỗi ngọn đèn, để đèn ấy có thể chiếu sáng và làm cho thế giới sáng ngời. Thế nhưng người ta giữ gìn tấm kính và quên đi ánh sáng; người ta chú ý đến hình dáng của tấm kính, mầu sắc và cách trang hoàng cho tấm kính ấy, cho đến khi tấm kính dầy lên, mờ tối và không cho ánh sáng chiếu soi qua tấm kính nữa. Vì vậy mà thế giới ngập chìm trong bóng tối. Thiên Chúa mong muốn thắp sáng thế giới. Tấm kính của các con phải trở nên trong suốt lần nữa. Các con phải hiểu rằng vì mục đích đó mà các con được sinh ra trên thế giới này.”
“Chúa Ki Tô biết những gì trong trái tim các con, và Ngài muốn trái tim các con. Ðừng đi tìm sự thật ở ngoài Chúa Ki Tô, khi các con biết Chúa Ki Tô thì  các con sẽ biết sự Thật và các con sẽ được giải phóng. Chúa Ki Tô muốn các con được giải thoát. Các con đừng sợ, và biết chắc chắn rằng Chúa Ki Tô đã chiến thắng thế giới.”
“Giáo hội của Chúa Ki Tô là tảng đá nghiền nát các làn sóng sự dữ.Chúa Ki Tô là con đường. Thánh giá của ánh sáng sẽ làm ngập lụt trái đất.”
“Lạy Cha Thánh Charbel, xin cha giúp cho tấm kính của đời sống chúng con trở nên trong suốt để ánh sáng của Thiên Chúa chiếu sáng qua chúng con mà đến với thế gian. Xin Cha cầu bầu cho nền hòa bình của thế giới. Amen.” 
Kim Hà,
20/7/2006


Links

Tuesday, July 22, 2014

Ngợi khen Đức Mẹ Ban Ơn





Ảnh của HBTT. vừa vẽ tặng THT.


Ngợi khen Đức Mẹ Ban Ơn
Nữ Vương các thánh cao hơn muôn loài
Nữ Vương Mẹ Chúa ngôi Hai
Nữ Vương diễm tuyệt trong ngoài đẹp xinh

Nữ Vương Thần Thánh thiên đình
Nử Vương các thánh đồng trinh trọn đời
Nữ Vương rất thánh tuyệt vời
Nữ Vương vô nhiễm tội đời dương gian

Nữ vương quyền phép Thiên đàng
Nữ Vương cao cả muôn ngàn khoan thay
Nữ Vương trần thế đời này
Nữ vương phù trợ từng ngày đời con

Ngợi khen biết mấy cho tròn
Ngợi khen danh thánh tình son trọn đời
Ngợi khen Tình Mẹ tuyệt vời
Ngợi khen mọi lúc mọi nơi mãi hoài

Tạ ơn tình Mẹ trong ngoài
Tạ ơn tình Mẹ chẳng phai bao giờ
Tạ ơn cả những ước mơ
Tạ ơn những lúc chẳng ngờ Mẹ ban

Tạ ơn có Mẹ hân hoan
Tạ ơn những lúc bảo ban con cùng
Tạ ơn tình Mẹ thủy chung
Tạ ơn Mẹ mãi ở cùng chúng con

Trầm Hương Thơ

Thứ bảy 23.07.2012 ngày lễ kính Đức Mẹ.
Cám ơn đã vẽ và tặng tấm hình "Đức Mẹ Ban Ơn"
cho Sơn Phượng.

Tin Mung Lanh Tac Vu Linh MUc

Trọng kính quí tác giả ĐXT
được tin báo:
Thầy Giuse Maria Cao Gia An Sj
(tác giả Lưu Minh Gian, CLB ĐXT và TCCN)
sẽ được lãnh tác vụ Linh Mục 
tại Nhà Thờ Hiển Linh, Dòng Tên
19 Đường Số 5, Khu Phố 2
Phường Linh Trung, Quận Thủ Đức, TP HCM
vào lúc 6g sáng ngày 21-8-2014
do việc đặt tay của 
Đức TGM Phao-lô Bùi Văn Đọc
Xin quí tác giả ĐXT và TCCN hiệp ý nguyện và tạ ơn cùng Dòng Tên, cùng Thầy, cùng Ông Cố Mic. Cao Danh Viện và Cao tộc.
Xin kính gửi thiệp mời đính kèm.
Rất mong quí tác giả tham dự lễ truyền chức.
Nếu được xin liên hệ với BBT để tiện tiếp đón và sắp xếp.
kính mến
BBT ĐXT và TCCN
PM. Cao Huy Hoàng


Lạy Chúa, 
nhớ ngày đầu tiên bước chân vào nhà Dòng
con đứng tần ngần trước tấm biển thông báo: 
“khu vực dành riêng, xin miễn vào!” 
chỉ là tần ngần một chút thôi
rồi con cũng được dẫn vào
khu vực vốn dành riêng cho con.
Tự bao giờ con đã trở thành người được dành riêng
sống trong những khu vực dành riêng
theo một khung chương trình rất riêng. 
Cả cuộc đời của con, từ hiện tại cho đến tương lai
mãi là một chuyến hành trình rất lạ và rất riêng…
Lạy Chúa, 
xin dạy con sống tốt cuộc đời con 
một cuộc đời đã được dành riêng cho Chúa, 
để Chúa được tự do sử dụng con 
như một quà tặng dành riêng cho mọi người.
Xin dạy con đón nhận việc được dành riêng
không phải như hưởng thụ một đặc ân
nhưng như là cưu mang một sứ mạng, 
không phải như một sự cô lập tách biệt
nhưng như là một khoảng lặng cần thiết
để con sống trong thông hiệp và nguyện cầu.
Ước gì việc được Chúa dành riêng 
có sức mạnh thánh hóa con từng ngày, 
để lòng đời bao la và nhiều tội lụy
chính bản thân con sẽ là một dấu chỉ
có khả năng làm cho nhiều người được thánh hóa
Cao Gia An, S.J.

Congratulation Thay Pho Te


 Day la hinh Thay Thang, nhan DK lam me tinh than.  Vi Thay bi mat me tu nho.  Gap duoc DK cung la nho on Chua.  Co dong nguoi thang khong go cua nha, ma go cua nha DK xin lam con.  Cuoc doi cua Thang nhu trong phuc am, hai ong trom ben tay phai va ben tay trai cua Chua Giesu.  Duoc on Chua hoan cai.  DK ke la khong biet sao dai radio catholic da phong tin cua Thay len, nen ngay Ordination rat dong nguoi toi tham du, ca nhung nguoi khong moi cung den.  Tai vi hoi xua Thang hay di day di do, de ke ve cuoc doi cua minh de giup gioi tre .  Ho biet tin nen den de ung ho, va thay phep la Chua lam.   Vay la doi 6 thang nua se chiu chuc Linh Muc.

Xin tiep tuc cau nguyen cho Thay Pho Te...
HBTT
Kính thưa Quý  Vị,

Lễ Thụ Phong  Linh Mục  của Thầy   Phaolo Hoàng Đình Thắng : 10 giờ sáng ngày thứ Bảy 5 July  tại Giáo Xứ St Benedict the Abbot 4025 Grapewine st, Houston, Texas 77045

Lễ Tạ Ơn ở Nhà Thờ Ngôi Lời lúc 11 giờ Sáng Chúa Nhật 6 July .

Xin kính mời tham dự và xin Cầu Nguyện cho Tân Linh Mục .  Đa Tạ.    

                                                    Đông Khê

Sunday, July 13, 2014

Selected Poems of St.John Of The Cross

tranh ve cua HBTT

Saint John of the Cross

In the evening of life, we will be judged on love alone.

Born in 1542 in Fontiveros, Spain, Juan de Yepes y Alvarez, was the son of a rich merchant. His father died when he was very young, leaving his mother to raise him alone. Juan, at age 18, began to study with the Jesuits and entered the Carmelite Order in 1563. Ordained in 1567, Juan met St. Teresa of Avila, another Christian mystic and followed her lead in attempting to reform his Order. In 1568, Juan and three other friars began to live a strict monastic life in a small farmhouse. They would go barefoot as confirmation of their pledge of poverty. He changed his name to Juan de la Cruz. There was hostility from his former brothers who saw his strict discipline as a criticism of their relaxed way of life. In 1576, they had him arrested and imprisoned. It was during this period of imprisonment, Juan wrote most of his exquisite poetry. He died in 1591.

selected poems of Saint John of the Cross

The Dark Night

One dark night, fired with love's urgent longings - ah, the sheer grace! - I went out unseen, my house being now all stilled. In darkness, and secure, by the secret ladder, disguised, - ah, the sheer grace! - in darkness and concealment, my house being now all stilled. On that glad night in secret, for no one saw me, nor did I look at anything with no other light or guide than the One that burned in my heart. This guided me more surely than the light of noon to where he was awaiting me - him I knew so well - there in a place where no one appeared. O guiding night! O night more lovely than the dawn! O night that has united the Lover with his beloved, transforming the Beloved into his Lover. Upon my flowering breast, which I kept wholly for him alone, there he lay sleeping, and I caressing him there in a breeze from the fanning cedars. When the breeze blew from the turret, as I parted his hair, it wounded my neck with its gentle hand, suspending all my senses. I abandoned and forgot myself, laying my face on my Beloved; all things ceased; I went out from myself, leaving my cares forgotten among the lilies.

The Living Flame Of Love

Songs of the soul in the intimate communication of loving union with God. O living flame of love that tenderly wounds my soul in its deepest center! Since now you are not oppressive, now consummate! if it be your will: tear through the veil of this sweet encounter! O sweet cautery, O delightful wound! O gentle hand! O delicate touch that tastes of eternal life and pays every debt! In killing you changed death to life. O lamps of fire! in whose splendors the deep caverns of feeling, once obscure and blind, now give forth, so rarely, so exquisitely, both warmth and light to their Beloved. How gently and lovingly you wake in my heart, where in secret you dwell alone; and in your sweet breathing, filled with good and glory, how tenderly you swell my heart with love.

The Spiritual Canticle (Redaction B)

Songs between the soul and the Bridegroom Bride Where have you hidden, Beloved, and left me moaning? You fled like the stag after wounding me; I went out calling you, but you were gone. Shepherds, you who go up through the sheepfolds to the hill, if by chance you see him I love most, tell him I am sick, I suffer, and I die. Seeking my love I will head for the mountains and for watersides; I will not gather flowers, nor fear wild beasts; I will go beyond strong men and frontiers. O woods and thickets planted by the hand of my Beloved! O green meadow, coated, bright, with flowers, tell me, has he passed by you? Pouring out a thousand graces, he passed these groves in haste; and having looked at them, with his image alone, clothed them in beauty. Ah, who has the power to heal me? Now wholly surrender yourself! Do not send me any more messengers; they cannot tell me what I must hear. All who are free tell me a thousand graceful things of you; all wound me more and leave me dying of, ah, I-don't-know-what behind their stammering. How do you endure O life, not living where you live, and being brought near death by the arrows you receive from that which you conceive of your Beloved? Why, since you wounded this heart, don't you heal it? And why, since you stole it from me, do you leave it so, and fail to carry off what you have stolen? Extinguish these miseries, since no one else can stamp them out; and may my eyes behold you, because you are their light, and I would open them to you alone. Reveal your presence and may the vision of your beauty be my death; for the sickness of love is not cured except by your very presence and image. O spring like crystal! If only, on your silvered-over faces, you would suddenly form the eyes I have desired, which I bear sketched deep within my heart. Withdraw them, Beloved, I am taking flight! Bridegroom - Return, dove, the wounded stag is in sight on the hill, cooled by the breeze of your flight. The Bride My Beloved, the mountains, and lonely wooded valleys, strange islands, and resounding rivers, the whistling of love-stirring breezes, the tranquil night at the time of the rising dawn, silent music, sounding solitude, the supper that refreshes and deepens love. Catch us the foxes, for our vineyard is now in flower, while we fashion a cone of roses intricate as the pine's; and let no one appear on the hill. Be still, deadening north wind; south wind, come, you that waken love, breathe through my garden, let its fragrance flow, and the Beloved will feed amid the flowers. You girls of Judea, while among flowers and roses the amber spreads its perfume, stay away, there on the outskirts: do not so much as seek to touch our thresholds. Hide yourself, my love; turn your face toward the mountains, and do not speak; but look at those companions going with her through strange islands. Bridegroom Swift-winged birds, lions, stags, and leaping roes, mountains, lowlands, and river banks, waters, winds, and ardors, watching fears of night: By the pleasant lyres and the siren's song, I conjure you to cease your anger and not touch the wall, that the bride may sleep in deeper peace. The bride has entered the sweet garden of her desire, and she rests in delight, laying her neck on the gentle arms of her Beloved. Beneath the apple tree: there I took you for my own, there I offered you my hand, and restored you, where your mother was corrupted. Bride Our bed is in flower, bound round with linking dens of lions, hung with purple, built up in peace, and crowned with a thousand shields of gold. Following your footprints maidens run along the way; the touch of a spark, the spiced wine, cause flowings in them from the balsam of God. In the inner wine cellar I drank of my Beloved, and, when I went abroad through all this valley, I no longer knew anything, and lost the herd that I was following. There he gave me his breast; there he taught me a sweet and living knowledge; and I gave myself to him, keeping nothing back; there I promised to be his bride. Now I occupy my soul and all my energy in his service; I no longer tend the herd, nor have I any other work now that my every act is love. If, then, I am no longer seen or found on the common, you will say that I am lost; that, stricken by love, I lost myself, and was found. With flowers and emeralds chosen on cool mornings we shall weave garlands flowering in your love, and bound with one hair of mine. You considered that one hair fluttering at my neck; you gazed at it upon my neck and it captivated you; and one of my eyes wounded you. When you looked at me your eyes imprinted your grace in me; for this you loved me ardently; and thus my eyes deserved to adore what they beheld in you. Do not despise me; for if, before, you found me dark, now truly you can look at me since you have looked and left in me grace and beauty. Bridegroom The small white dove has returned to the ark with an olive branch; and now the turtledove has found its longed-for mate by the green river banks. She lived in solitude, and now in solitude has built her nest; and in solitude he guides her, he alone, who also bears in solitude the wound of love. Bride Let us rejoice, Beloved, and let us go forth to behold ourselves in your beauty, to the mountain and to the hill, to where the pure water flows, and further, deep into the thicket. And then we will go on to the high caverns in the rock that are so well concealed; there we shall enter and taste the fresh juice of the pomegranates. There you will show me what my soul has been seeking, and then you will give me, you, my life, will give me there what you gave me on that other day: the breathing of the air, the song of the sweet nightingale; the grove and its living beauty in the serene night, with a flame that is consuming and painless. No one looked at her, nor did Aminadab appear; the siege was still; and the cavalry, at the sight of the waters, descended.